MÔN HỌC

Các loại hình âm nhạc và nhạc cụ tại Việt Nam

Như lần trước Suối Nhạc Quang Trung đã nói, hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu kỹ hơn về nền âm nhạc Việt Nam nhé.

Âm nhạc nước ta rất phong phú và đa dạng. Do các yếu tố về lịch sử nên nền âm nhạc Việt Nam mang cả yếu tố truyền thống lẫn ảnh hưởng từ các nền âm nhạc tiên tiến khác như Mỹ, Pháp, Nhật và đặc biệt là Trung Quốc.

Song song với những thể loại âm nhạc mà hầu như mọi người đều nghe hiện nay, hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu sâu hơn về các thể loại nhạc truyền thống từ xa xưa của người Việt nhé các bạn?

Chèo:

Với lí do vua Lê Thánh Tông đã không cho phép biểu diễn chèo trong cung đình vì ảnh hường cả đạo Khổng, Chèo trở về với nông dân. Và đến thế kỉ 18, hình thức Chèo đã được phát triển mạnh ở vùng nông thôn Việt Nam, tiếp tục phát triển và đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỉ 19. Và những vở Chèo nổi tiếng như Quan Âm Thị Kính, Lưu Bình Dương Lễ, Kim Nha, Trương Viện đã ra đời trong giai đoạn này.

Đến thế kỉ 19, Chèo bị ảnh hưởng của Tuồng, khai thác một số tích truyện như Tống Trân, Phạm Tải hoặc từ tích truyển Trung Quốc như Hán Sở Tranh Hùng. Và Chèo chính thức được đưa lên sân khấu thành thị vào đầu thế kỉ 20. Ra đời thêm một số vở mới như Tô Thị, Nhị Đô Mai.

Như chúng ta đã biết, đồng bẳng châu thổ sông Hồng luôn được xem là cái nôi của nền văn minh lúa nước của người Việt. Mỗi khi mùa vụ kết thúc, họ lại tổ chức các lễ hội để vui chơi và cảm tạ thần thánh đã phù hộ cho vụ mùa no ấm. Nhạc cụ chủ yếu của Chèo là trống chèo. Chiếc trống là một phần của văn hóa cổ Việt Nam, người nông dân thường đánh trổng để cầu mua và biểu diễn Chèo.

Xẩm:

Theo truyền thuyết, đời nhà Trần, vua cha Trần Thánh Tông có hai hoàng tử là Trần Quốc Toán và Trần Quốc Đĩnh. Do tranh giành quyền lực nên Trần Quốc Đĩnh bị Trần Quốc Toán hãm hại, chọc mù mắt rồi đem bỏ giữa rừng sâu. Tỉnh dậy, hai mắt mù loà nên Trần Quốc Đĩnh chỉ biết than khóc rồi thiếp đi. Trong mơBụt hiện ra dạy cho ông cách làm một cây đàn với dây đàn làm bằng dây rừng và gẩy bằng que nứa. Tỉnh dậy, ông mò mẫm làm cây đàn và thật lạ kỳ, cây đàn vang lên những âm thanh rất hay khiến chim muông sà xuống nghe và mang hoa quả đến cho ông ăn. Sau đó, những người đi rừng nghe tiếng đàn đã tìm thấy và đưa ông về. Trần Quốc Đĩnh dạy đàn cho những người nghèo, người khiếm thị. Tiếng đồn về những khúc nhạc của ông lan đến tận hoàng cung, vua vời ông vào hát và nhận ra con mình.

Trở lại đời sống cung đình nhưng Trần Quốc Đĩnh vẫn tiếp tục mang tiếng đàn, lời ca dạy cho người dân để họ có nghề kiếm sống. Hát xẩm đã ra đời từ đó và Trần Quốc Đĩnh được suy tôn là ông tổ nghề hát xẩm nói riêng cũng như hát xướng dân gian Việt Nam nói chung. Người dân lấy ngày 22 tháng 2 và 22 tháng 8 âm lịch làm ngày giỗ của ông. Trung tâm Phát triển Nghệ thuật Âm nhạc Việt Nam thuộc hội nhạc sĩ Việt Nam đã lập ra một giải thưởng mang tên Trần Quốc Đĩnh nhằm tôn vinh, hỗ trợ các nghệ nhân, nghệ sĩ, nhà sưu tầm, nghiên cứu, nhà báo có công lao, đóng góp cho lĩnh vực âm nhạc truyền thống và trao giải lần đầu tiên năm 2008.

Theo chính sử thì vua Trần Thánh Tông không có hoàng tử tên Đĩnh hay Toán. Thái tử con vua Thánh Tông tên là Khảm, sau lên ngôi là vua Nhân Tông; một người con nữa là Tả Thiên vương. Vì vậy nguồn gốc hát xẩm là dựa trên thánh tích chứ không truy được ra trong chính sử.

Quan họ:

Ý nghĩa từ “Quan họ” thường được tách thành hai từ rồi lý giải nghĩa đen về mặt từ nguyên của “quan” và của “họ”. Điều này dẫn đến những kiến giải về Quan họ xuất phát từ “âm nhạc cung đình”, hay gắn với sự tích một ông quan khi đi qua vùng Kinh Bắc đã ngây ngất bởi tiếng hát của liền anh liền chị ở đó và đã dừng bước để thưởng thức (“họ”).

Tuy nhiên cách lý giải này đã bỏ qua những thành tố của không gian sinh hoạt văn hóa quan họ như hình thức sinh hoạt (nghi thức các phường kết họ khiến anh hai, chị hai suốt đời chỉ là bạn, không thể kết thành duyên vợ chồng), diễn xướng, cách thức tổ chức và giao lưu, lối sử dụng từ ngữ đối nhau về nghĩa và thanh điệu trong sinh hoạt văn hóa đối đáp dân gian.

Hát chầu văn:

Là một loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền của Việt Nam. Đây là hình thức lễ nhạc trong nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng Tứ phủ và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần ( Đức Thánh Vương Trần Hưng Đạo) , một tín ngưỡng dân gian Việt Nam.Bằng cách sử dụng âm nhạc mang tính tâm linh với các lời văn chau truốt nghiêm trang, chầu văn được coi là hình thức ca hát mang ý nghĩa chầu thánh . Hát văn có xuất xứ ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Thời kỳ thịnh vượng nhất của hát văn là cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20. Vào thời gian này, thường có các cuộc thi hát để chọn người hát cung văn. Từ năm 1954, hát văn dần dần mai một vì hầu đồng bị cấm do bị coi là mê tín dị đoan.

Chầu văn sử dụng nhiều thể thơ khác nhau như thơ thất ngôn , song thất lục bát, lục bát, nhất bát song thất ( có thể gọi là song thất nhất bát gồm có một câu tám và hai câu bảy chữ ) , hát nói…

Ca trù :

Hát ca trù hay Hát ả đào là một bộ môn nghệ thuật truyền thống ở phía Bắc Việt Nam, kết hợp hát cùng một số nhạc cụ dân tộc. Ca trù thịnh hành từ thế kỉ 15, từng là một loại ca trong cung đình và được giới quý tộc và học giả yêu thích.

Ngày 1 tháng 10 năm 2009, tại kỳ họp lần thứ 4 của Ủy ban liên chính phủ Công ước UNESCO Bảo vệ di sản phi vật thể  (từ ngày 28 tháng 9 tới ngày 2 tháng 10 năm 2009), ca trù đã được công nhận là di sản phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp. Đây là di sản văn hóa thế giới có vùng ảnh hưởng lớn nhất Việt Nam, có phạm vi tới 16 tỉnh, thành phố phía Bắc. Hồ sơ đề cử Ca trù là di sản văn hóa thế giới với không gian văn hóa Ca trù trải dài khắp 16 tỉnh phía Bắc gồm: Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Thái Bình, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quãng Bình.

 Hò:

Đây là một loại ca hát trình diễn dân gian phổ biến đến đời sống, là nét văn hóa của miền Trung và miền Nam. Có nguồn gốc lao động sông nước, diễn tả tâm tư tình cảm của người lao động.

Trong sinh hoạt những đêm trăng những nhóm con trai đi chơi, thường cất lên những điệu hò để dò hỏi những cô gái về những công việc. Diệu hò giao duyên giữ hai bên đối đáp lại nhau, người con gái hay một nhóm sẽ hò đáp trả lại khi đó. Trên sông nước khi đi đò, người hò thường hò diệu giao duyên giữa hai chiếc đò gần nhau.

 Các loại hò phổ biến:

  1. Hò Đồng Tháp
  2. Hò Kéo Lưới
  3. Hò Qua Sông Hái Củi
  4. Hò Khoan
  5. Hò Mái Nhì
  6. Hò Giã Gạo
  7. Hò Xay Lúa
  8. Hò Kéo Gỗ
  9. Hò Đạp Lúa

Nguồn : http://pianominhthanh.com/suoi-nhac/cac-loai-hinh-am-nhac-va-nhac-cu-tai-viet-nam/

     

CÔNG TY TNHH TM MINH THANH P.I.A.N.O
GPKD số: 0303233525 do Sở KH & ĐT TPHCM cấp lần đầu ngày 08/04/2004
Địa chỉ: 369 Điện Biên Phủ, Phường 4, Quận 3, TPHCM
CN 1: 779 Cách Mạng Tháng 8, P.6, Q. Tân Bình, TPHCM
CN 2: 1129b Trần Phú, P. Lộc Tiến, Tp. Bảo Lộc, Tỉnh Lâm Đồng 
 
 
 
Chấp nhận thanh toán
visabaokimmastercardnganluong